Chủ Nhật, 5 tháng 12, 2021

Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 190

 

Truyện Tình Hai Họ Dương Hà

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 48

 

“Quan tổng trấn Tần công chu đáo

Nhờ vận may ai bảo dắt dê

Nuôi bò chăn ngỗng trở về

Hai chàng xe ngựa đề huề cử nhân

Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 189

 

 

Truyện Tình Hai Họ Dương Hà

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 46

 

“Người mẹ già bồi hồi xúc động

Dặn hai con lương đống hiền tài

Tang bồng hồ thỉ mấy ai

Trung quân báo quốc sức trai phỉ nguyền

 

Mẹ cam chịu ưu phiền túng thiếu

Mặc hai con lo liệu mọi bề

Phong trần dặm nẻo sơn khê

Công thành danh toại tràn trề tương lai“

 

Lương đống nghĩa là rường cột và nóc nhà, nghĩa bóng là chỗ dựa của nước nhà. Lương đống nguy nga chỉ nhà cửa cao đẹp.

Tang bồng hồ thỉ hay tang hồ bồng thỉ nghĩa là “Tang” là dâu, “hồ” là cung, “tang hồ” là cung bằng gỗ cây dâu. “Bồng” là “cỏ bồng”, “thỉ” là “tên”, “hồ thỉ” là tên bằng cỏ bồng. Tang hồ bồng thỉ, nghĩa là cung làm bằng gỗ dâu, tên làm bằng cỏ bồng. Ngày xưa bên Tàu, hễ sinh con trai thì dùng loại cung tên này bắn sáu phát; bắn bốn phát ra bốn hướng, một phát lên trời, còn một phát xuống đất.  Ý nghĩa của việc làm này là sau này trưởng thành, hy vọng người con trai sẽ mang chí lớn đầu đội trời chân đạp đất gươm đàn nửa gánh non sông một chèo.

 

“Lễ tiểu khoa trai tài gái sắc

Cờ biển ban chim hạc bay cao

Thám hoa bảng nhãn nhất trào

Chờ ngày võng lọng xôn xao xóm làng“

 

Lễ tiểu khoa nghĩa là kết hôn cưới vợ sau khi người con trai đã hoàn thành lễ đại khoa tức là thi đỗ thành đạt. Bảng nhãn là một danh hiệu của học vị Tiến sĩ trong hệ thống giáo dục của China và Việt Nam thời phong kiến.

 

Ở Việt Nam, danh hiệu này được xác định trong kỳ thi bậc nhất của thi Đình, còn gọi là Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ, nhị danh. Người thi đỗ bảng nhãn đứng thứ hai trong tam khôi dưới trạng nguyên, trên thám hoa.

 

“Nơi hậu viện Tuyết Băng hai ả

Mơ tân lang thư thả gót hài

Dương Trân Dương Bửu khoan thai

Cúi đầu ba lễ cân đai sảnh đường

 

Không theo Phật chẳng tường Nho giáo

Đạo Hòa Lan chưa thạo đường đi

Nghẹn ngào bồ liễu nữ nhi

Thu Băng Xuân Tuyết thầm thì Chúa ơi!

 

Họ hàng ai tới nơi thăm hỏi

Phủ Tần Công vời vợi cao sang

Cha tu mẹ dưới suối vàng

Họ Tần nhờ cậy khang trang cửa lầu

 

Nay chẳng thiếu kẻ hầu người hạ

Hai tiểu thư vàng đá trăm năm

Hương thơm ngây ngất trăng rằm

Xe dây kết tóc con tằm nhả tơ

 

Soạn sáu bản nhạc thơ tao nhã

Khúc tương tư bả lả xốn xang

Thướt tha yểu điệu dịu dàng

Dương Từ Hà Mậu mơ màng canh thâu

 

Nghe réo rắt phụng cầu Tư Mã

Trác Văn Quân nghiêng ngả năm nào

Thuyền quyên thục nữ má đào

Trai hùng hội ngộ thi hào đờn ca

 

Tiếng cầm sắt bay xa tha thiết

Hai chị em da diết tân lang

Kim bôi hợp cẩn thiếp chàng

Hai đôi loan phượng xích thằng nỉ non

 

Nhưng than ôi duyên còn xa lắc

Mộng kê vàng dằng dặc Nam Kha

Bao giờ trọn vẹn hai nhà

Dương Từ Hà Mậu cung nga mận đào

 

Cha mẹ nuôi dựa vào Nho đạo

Kén rể hiền Khổng giáo thư sinh

Chị em ráng sức hết mình

Công dung ngôn hạnh tuyệt tình Gia tô

 

Hai mươi bốn thảo phô đầu ngõ

Ánh trăng vàng ngọc thỏ ai hay

Trời sinh đất dưỡng ơn dày

Mẹ cha khó nhọc tháng ngày lầm than”

 

Đoạn thơ trên tôi mô tả giấc mơ của hai chị em con gái vợ chồng Hà Mậu Liễu Nương, hai nàng Thu Băng và Xuân Tuyết đã trở thành hai tiểu thư nhà họ Tần  về hai chàng Dương Trân và Dương Bửu sẽ đi thi đình tuyển chọn tiến sĩ và đỗ cao thứ hai và thứ ba sau trạng nguyên là bảng nhãn và thám hoa.

 

 

Truyện Tình Hai Họ Dương Hà

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 47

 

“Công phụ mẫu non ngàn biển rộng

Tháng năm hoài nòi giống sắt son

Lẽ nào sinh sự mất còn

Cha con khác đạo héo hon cõi lòng

 

Đạo vua tôi theo dòng thế kỷ

Kẻ tiểu nhân ghen tỵ hẹp hòi

Tề gia tu đức sáng soi

Bình yên thiên hạ rạch ròi giang san

 

Khi xã tắc gian nan trợ giúp

Gặp địch quân đánh úp sau lưng

Sĩ phu chớ có lừng khừng

Gian thần loại bỏ thanh trừng kiêu binh

 

Đạo vợ chồng gia đình êm ấm

Giàu nghèo đều giữ tấm tình thương

Trước sau phép tắc cương thường

Anh em họ mạc quê hương trọn lòng

 

Người quân tử chẳng mong quyền quý

Phải uốn lưng quỵ lụy chui luồn

Bầy đàn sâu mọt con buôn

Tham quan ác bá bán trôn nuôi mồm

 

Lũ ăn theo chồm hôm cẩu tặc

Chút cơm thừa tàn ác hại người

Thị phi reo rắc muôn nơi

Đặt điều vu khống đánh hơi cắn càn

 

Giọng thơ ngâm cung đàn thảm thiết

Thật tài tình Xuân Tuyết Thu Băng

Lẽ đời đạo hạnh ai bằng

Nàng Ban ả Tạ dễ dàng chịu thua“

 

Nàng Ban tức là Ban Chiêu, tự Huệ Cơ sinh trưởng trong gia đình Nho học, cha anh đều là bậc công thần học thức uyên bác. Ban Chiêu rất thông minh, 13 tuổi đã giỏi thi phú. Đến tuổi cặp kê, Ban Chiêu sánh duyên cùng Tào Thế Thức, cũng là một nhà nho lỗi lạc.

Ăn ở với nhau được 10 năm, Thức chết, nàng thủ tiết thờ chồng. Nhà vua nghe danh nàng Ban học rộng tài cao nên cho vời vào cung dạy các hoàng tử, cung phi. Ai ai cũng tôn trọng là bực thầy.

Lúc bấy giờ, Ban Bưu đương làm quan tại triều, được vua cử soạn bộ Hán Thư. Nhưng làm chưa xong, Ban Bưu chết. Anh của nàng là Ban Cố được lịnh kế nghiệp cha, nhưng công việc chưa xong thì bị bệnh nặng rồi mất.

Thấy cha và anh bỏ dở công việc, Ban Chiêu tâu xin nhà vua cho nàng được tiếp tục biên soạn bộ Hán Thư. Vua Hòa Đế bằng lòng. Nàng được vào Đông quan tàng thư để tiếp tục công việc biên soạn bộ Hán Thư mà cha và anh chẳng may bỏ dở. Trong thời gian này, Ban Chiêu còn trứ tác tập "Nữ giới" gồm có 7 thiên. Danh tiếng của nàng càng lẫy lừng.

 

 Tạ Đạo Uẩn, con nhà thế phiệt đời nhà Tấn. Tạ Đạo Uẩn lúc nhỏ đã thông minh, học rộng lại có tài biện luận. Nhân một hôm về mùa đông, tuyết rơi lả tả, chú của Tạ Đạo Uẩn là Tạ An ngồi uống rượu nóng có cả hai cháu là Tạ Lãng và Đạo Uẩn ngồi hầu bên. Tạ An liền chỉ tuyết, hỏi:

- Tuyết rơi giống cái gì nhỉ?

Tạ Lãng đáp:

- Muối trắng ném giữa trời.

Tạ Đạo Uẩn bảo:

- Thế mà chưa bằng "Gió thổi tung tơ liễu".

Tạ An khen Tạ Đạo Uẩn là thông minh, nhiều ý hay, tư tưởng đẹp. Ông lại thường chỉ Đạo Uẩn mà bảo các con cháu rằng:

- Nếu là trai, Tạ Đạo Uẩn sẽ là bực công khanh.

Tạ Đạo Uẩn sau kết duyên vớI Vương Ngưng Chi, một nhà nho lỗi lạc đương thời.

Làm vợ họ Vương, Tạ Đạo Uẩn thường thay chồng tiếp khách văn chương, đàm luận thi phú. Nàng tỏ ra là người hoạt bát, thông suốt nhiều vấn đề, lập luận vững chắc làm nhiều tay danh sĩ đương thời phải phục.

Em chồng của Tạ Đạo Uẩn là Vương Thiếu Chi. Người học giỏi nhưng lập luận kém cỏi, thiếu hoạt bát nên trong khi biện luận thường bị khách áp đảo. Tạ Đạo Uẩn sợ em chồng mất giá trị nên bảo thị tỳ thưa với Thiếu Chi làm một cái màn che lại, nàng sẽ ngồi sau để nhắc Thiếu Chi trong khi biện luận với khách.

Thiếu Chi nhờ đó mà khuất phục được khách và nổi danh, được nhiều người kính phục.

Nàng Ban, ả Tạ là hai người phụ nữ có tài danh về thi phú văn chương. Trong "Đoạn trường tân thanh" của Nguyễn Du, đoạn thuật nàng Kiều sang chỗ ở của Kim Trọng và đề thơ trên bức tranh, Kim Trọng khen nàng:

“Khen tài nhả ngọc phun châu.

Nàng Ban, ả Tạ cũng đâu thế này”

 

 

“Giỏi nữ công thêu thùa khéo léo

Hai tiểu thư trêu ghẹo dưới trăng

Chủ hôn đã có chị Hằng

Dương Trân Dương Bửu thung thăng đợi chờ

 

Lòng xao động ngẩn ngơ phu tử

Trộm đứng nhìn tư lự vấn vương

Hai chàng ấp bóng góc tường

Càng say vẻ ngọc càng vương vấn tình

 

Khúc đoạn trường sinh linh đồ thán

Cõi nhân gian hoạn nạn dồn nhau

Thiên tai bệnh dịch khổ đau

Gây ra mầm họa vàng thau bụi mờ

 

Biết bao kẻ nhuốc nhơ tội lỗi

Mưu lợi riêng lạc lối bá quyền

Tập đoàn ăn chặn bạc tiền

Ăn chơi trác táng bon chen điếm đàng

 

Nghe tiếng đờn trăng vàng thểu não

Đom đóm bay lảo đảo bước chân

Dương Trân Dương Bửu lại gần

Hoa xinh bẽn lẽn giai nhân thẹn thùng

 

Hàng quốc sắc trai hùng gặp mặt

Bậc văn nhân xếp đặt ý trời

Kẻ chào người đón tươi cười

Lòng trong như đã ngoài lời còn e

 

Quan tổng trấn hả hê mới gọi

Đoàn huyện quan tươi rói nụ cười

Phu nhân khen thưởng ngỏ lời

Bạc vàng gấm vóc về nơi dưỡng già

 

Nhạc phụ mẫu trau tria hai rể

Cấp ngựa xe đủ lễ về làng

Hai thày cử nhỏ xênh xang

Về thăm mẹ cậu họ hàng tổ tông”

 

Đoạn thơ này miêu tả hai cặp song sinh gặp nhau dưới ánh trăng ở hậu viên phủ Tần Công, họ rất ăn ý hợp nhau cũng tình tứ nên thơ như cảnh chiều tà Thúy Kiều gặp Kim Trọng bên cạnh mả Đạm Tiên cũng được tôi miêu tả bằng thơ song thất lục bát trong tập Tài Mệnh Tương Đố

 

 

“Hồn thổn thức bi ai ảo não

Ba chị em lảo đảo toàn thân

Bỗng đâu sáo nhạc xa gần

Ra về chẳng nỡ tần ngần ngẩn ngơ

 

Linh cảm khéo tình cờ như báo

Dáng thư sinh đạo mạo thung thăng

Tay cương buông lỏng dặm băng

Túi thơ bầu rượu gió trăng khác người

 

Đàn cá trắng chơi vơi chờ đợi

Sóng lăn tăn chới với bần thần

Tiểu đồng hai đứa theo chân

Aó xanh thanh thoát tao nhân đề huề

 

Màu cỏ nhuộm đê mê ngây ngất

Non da trời phảng phất quỳnh dao

Vương Quan bước tới hỏi chào

Khách đà xuống ngựa dạt dào lòng hoa

 

Mặt mừng rỡ thái hòa chúc tụng

Hai chị em lúng túng làm sao

Cúi đầu nấp dưới cành đào

Vân Kiều thỏ thẻ dạt dào tuyết sương

 

Chàng Kim Trọng văn chương vốn liếng

Dòng trâm anh có tiếng gần xa

Xôn xao vẫn nước non nhà

Với Vương Quan, mới khéo là bạn thân

 

Vẫn hâm mộ hương lân đồng Tước

Nhà Họ Vương có được xuân Kiều

Giang Nam thơ mộng mĩ miều

Phong lan ngào ngạt yêu chiều cả hai

 

Lòng xao xuyến anh tài nữ sắc

Nổi cờ lên ngơ ngác nhìn nhau

Thẹn thùng kẻ trước người sau

Lần khân chẳng tiện trời mau tối dần…“

 

3.4.2020 Lu Hà